Các mẫu T-80 chủ yếu T-80

Đặc điểm các mẫu T-80 chủ yếu
T-80
(Ob'yekt 219)
T-80B
(Ob'yekt 219R)
T-80BV
(Ob'yekt 219RV)
T-80A
(Ob'yekt 219A)
T-80U
(Ob'yekt 219AS)
T-80UD "Beryoza"
(Ob'yekt 478B)
Nặng
(tấn)
4642.543.7[20]51.9[21]50.7[22]46[23]
Dài
(mét)
76.98[22]7.01[22]7.085[23]
Rộng
(mét)
3.60[22]3.58[22]3.60[22]3.56[23]
Cao
(mét)
2.20[22]2.22[22]2.20[22]2.74[23]
Pháo chính125 mm 2A46-1 smoothbore[20]125 mm 2A46M-1 (D-81TM "Rapira-3") smoothbore[20]125 mm KBA3 smoothbore[23]
Súng máy7.62 mm PKT coaxial tank (1.250 rounds)[22]
12.7 mm NSVT anti-aircraft heavy (500 rounds)[22]
7.62 mm KT-7.62 coaxial (1.250 rounds)[23]
12.7 mm KT-12.7 anti-aircraft heavy (450 rounds)[23]
Tên lửa chống tăng ATGM
(gọi tên bởi NATO)
Không9M112 Kobra (AT-8 Songster) (6 missiles)9M119M Refleks (AT-11B Sniper)9M119 Svir (AT-11 Sniper) and 9M119M Refleks (AT-11B Sniper)
Động cơGTD-1000T đa nhiên liệu[22] động cơ tuốc bin khí 1.000 mã lực (746 kW)[20]GTD-1000T (GTD-1000TF dùng cho T-80B bản 1980) multi-fuel[22] động cơ tuốc bin khí 1.000 mã lực (746 kW) (1.100 mã lực (820 kW) đối với GTD-1000TF)[20]GTD-1000TF đa nhiên liệu[22] động cơ tuốc bin khí 1.100 mã lực (820 kW)[20]GTD-1000M đa nhiên liệu[22] động cơ tuốc bin khí 1.200 mã lực (895 kW)[20]GTD-1000F (GTD-1250 dùng cho T-80U bản 1992) đa nhiện liệu[22] động cơ tuốc bin khí 1.100 mã lực (820 kW) (1.250 mã lực (932 kW) đối với GTD-1250)[20]6TD twin-stroke, đa nhiên liệu, động cơ diesel 6 xi lanh làm mát bằng chất lỏng 1.006 mã lực (750 kW)[23]
Tốc độ
(cây số/giờ)
70 (đường nhựa)[22]
48 (đường gồ ghề)
65 (đường nhựa)[23]
45 (đường gồ ghề)[23]
Tầm hoạt động
(cây số)
500 (đường nhựa)
335 (đường gồ ghề)
600 (đường nhựa với bình nhiên liệu phụ)
500 km (đường nhựa)[22]
335 (đường gồ ghề)
900 (đường nhưạ với bình nhiên liệu phụ)[22]
580 km (đường nhựa)[23]
450 km (đường nhựa)[23]
Sức kéo
(mã lực/tấn (kW/tấn))
21.7 (16.2)23.5 (17.6)
(25.9 (19.3) đối với T-80B bản 1980)
25.2 (18.8)23.1 (17.2)21.7 (16.1)
(24.7 (18.4) đối với T-80U bản 1992)
21.9 (16.3)

Obyekt 219

Việc thử nghiệm động cơ GTD-1000 đầu tiên được thực hiện trên thân xe T-64 với tên gọi Obiekt 219 sp.1 (sp là spetsifikatsiya, chi tiết), còn được gọi là Groza (Bão sấm). Trong suốt những lần thử nghiệm đầu tiên, Izotov than phiền rằng bộ phận chuyển động của T64 có thể hạn chế rất lớn tốc độ tiềm tàng của động cơ tua bin khí vì những bánh chịu lực và dải xích bằng kim loại bị rung lắc rất khủng khiếp khi xe chạy tốc độ cao. Vì vấn đề này, Obiekt được trang bị một hệ thống giảm sóc mới, nhưng nó vẫn chưa đạt được những tiêu chuẩn như của hệ thống giảm sóc của đối thủ T-72 từ Niszhni-Tagil.

Phiên bản Obiekt 219 sp.2 đầu tiên với hệ thống giảm sóc mới được xuất xưởng năm 1971. Người ta đã chế tạo khoảng 60 xe tăng thử nghiệm được tiến hành từ 1968 đến 1971 nghiên cứu kết hợp rất nhiều hệ thống giảm sóc và linh kiện đi kèm. Vấn đề lọc bụi vẫn còn tồn tại, người ta khắc phục nó bằng cách sử dụng các diềm chắn cao su và nâng cấp hệ thống lọc gió của động cơ. Năm 1973, đơn vị thử nghiệm giới thiệu một loại động cơ tua bin khí mới (để tăng cường khả năng cơ động của xe) có sức mạnh ngang bằng với T-64 nhưng động cơ này không đạt được yêu cầu thiết kế là 500 giờ hoạt động liên tục. Cuối 1972, chỉ 19 trên tổng số 27 động cơ được sản xuất hàng loạt đạt thời gian hoạt động khoảng 300 giờ. Trong những năm 1974-1975, tiểu đoàn thử nghiệm của Quân khu Volga than phiền rằng dù ngốn rất nhiều nhiên liệu nhưng công suất hoạt động thực tế của động cơ lại quá thấp. Xe tăng mới cần bình xăng phụ lớn để có thể đạt được tầm hoạt động cơ bản là 450 km. Ngay cả với phiên bản Obiekt 219 sp.8 mới nhất, lượng nhiên liệu tiêu thụ vẫn cao gấp 1,6 đến 1,8 lần so với T-64A. Nền công nghiệp xe tăng Xô Viết tiến lên rất chậm chạp, một phần lý do là việc giải quyết các vấn đề với các chương trình T-64 và T-72 trong khi vẫn phải sản xuất hàng loạt T-55T-62 sau khi Ai Cập và Syrya bất ngờ mất quá nhiều tăng vào năm 1973 trong chiến tranh Yom Kippur.

Tháng 11 năm 1975, Bộ trưởng bộ quốc phòng, nguyên soái Andrei Grechko đã bác bỏ kế hoạch đưa Obiekt 219 vào sản xuất dựa trên lý do, hao tốn nhiêu liệu gấp đôi T-64A nhưng khả năng giáp và hỏa lực không hề thay đổi. Obiekt 219 có thể đã rơi vào quên lãng như nhiều dự án thất bại khác nhưng tháng 4-1976, Grechko qua đời và Dmitry Ustinov được bổ nhiệm thay thế. Việc bổ nhiệm Ustinov là một trường hợp ngoại lệ đầu tiên trong truyền thống quân đội Xô Viết, Ustinov không phải là chỉ huy chiến trường, mà là người đứng đầu nền sản xuất quốc phòng Xô Viết kể từ thế chiến thứ 2. Ustinov là một trong những người ủng hộ hăng hái nhất việc chuyển đổi sử dụng động cơ tua bin khí từ giữa thập niên 60, và Obiekt 219 chính là đứa con cưng của ông ta. Kết quả đến khá nhanh, tháng 8 năm 1976, Obiekt 219 bất ngờ được chấp thuận được đưa vào sản xuất với tên T-80 do quân đội đặt.

T-80 (Ob'yekt 219) (1976)

Các vấn đề nổi cộm trong khi thử nghiệm được để sang một bên để được giải quyết khi sản xuất hàng loạt. Việc sản xuất T-80 bắt đầu tiến hành tại Leningrad(LKZ) thay thế cho T-64A. Đã từng có một kế hoạch chuyển đổi Nhà Máy Số 13 tại Omsk từ sản xuất T-55 thành sản xuất T-72, nhưng nó đã bị thay đổi, nhà máy cũng được chuyển sang sản xuất T80. Cuối cùng, Ustinov cũng đã lên kế hoạch chuyển nhà máy Kharkov sang sản xuất T-80. Ustinov không hề có hứng thú với T-72 chi phí thấp của Nizhni-Tagil nhưng công nhận sự cần thiết của một tùy chọn có tính kinh tế để thay thế các dòng xe tăng cũ hơn như T-54, cũng như là một sự huy động với giá rẻ trong trường hợp có chiến tranh. Nhưng Ustinov khẳng định sự ưu tiên hàng đầu trong đổi mới như hệ thống điều khiển hỏa lực mới được tích hợp trên T-80 chứ không phải cho T-72.

Quyết định sản xuất T80 được đưa ra lúc Aleksandr Morozov về hưu tháng 5 năm 1976 và chương trình T-74 NST bị loại bỏ. Trên phiên bản gốc, T-80 được trang bị hỏa lực giống như T-64A, nó dùng đúng loại tháp pháo với máy đo xa quang học. Nhưng giá thành nó cực kì đắt: 480 000 rúp trong khi T-64A chỉ 143 000 rúp. Đối với việc điều khiển tháp pháo và hỏa lực, T-80 đã đi sau T-64 của Kharkov đã được nâng cấp thành T-64B với hệ thống điều khiển hỏa lực kết hợp một máy đo xa bằng laser và có khả năng phóng tên lửa điểu khiển Kobra từ năm 1976. Kết quả là việc sản xuất T-80 diễn ra rất ngắn, từ 1976 đến 1978 tại nhà máy Leningrad Kirov (LKZ). Tài liệu được giải mật từ Hiệp ước Các lực lượng vũ trang thông thường ở châu Âu tháng 11 năm 1990 cho thấy, chỉ khoảng 112 xe T-80 ở phía Tây dãy Ural, điều này chứng tỏ, tổng số lượng T-80 được sản xuất chỉ khoảng dưới 200 chiếc.

T-80B (Ob'yekt 219R) (1978)

T-80BT-80B trong bảo tàng

Từ khi Ustinov quyết định chuyển việc sản xuất xe tăng T-80 thay cho các loại khác (trừ nhà máy Uralvagon ở Nizhni Tagil), việc nâng tiêu chuẩn cho hệ thống điều khiển hỏ lực lên chuẩn của T-64B trở nên rất cấp bách. Do sự cạnh tranh giữa cá nhà máy, Leningrad tỏ ra thích đưa các tính năng tiên tiến của T-64B vào T-80 hơn là dùng loại tháp pháo nguyên bản của Kharkov.

9K112 Kobra là loại tên lửa chống tăng có điều khiển đầu tiên bắn qua nòng pháo được trang bị trong quân đội Xô Viết. Nó bắt đầu được phát triển từ năm 1960 vì sự ám ảnh của Khruschev với tên lửa và niềm tin của ông ta vào tương lai của việc trang bị tên lửa trên xe tăng. Đầu tiên, Xe tăng được trang bị tên lửa chống tăng thông thường, nhưng việc áp dụng điều này đã làm cho các nhà thiết kế đặt ra câu hỏi liệu có nên để một chiếc xe tăng mang ít tên lửa hơn mang đúng số lượng đạn dược thông thường. Thế hệ đầu tiên của tên lửa bắn qua nòng pháo không được chấp thuận, và thế hệ tiếp theo được bắt đầu vào ngày 20 tháng 5 năm 1968 dựa trên cấu hình pháo D-81 Rapira 125mm. Tên lửa dẫn bắn bằng vô tuyến Kobra được phát triển bởi A.E.Nudeman của viện thiết kế Tochmash ở Matxcơva, trong khi loại dẫn đường bằng hồng ngoại là Gyurza được phát triển bởi P.Nepobidimy của Viện Thiết Kế Công nghiệp (Konstruktorskoye Biuro Mashinostroeniya: KBM) ở Koloma.

Gyurza bị đánh giá là có thiết kế quá cấp tiến, vượt xa công nghệ tại thời điểm đó có thể hỗ trợ nên bị dừng lại vào tháng 1 năm 1971 và tập trung tất cả vào phát triển Kobra. Lần bắn thử đầu tiên của Kobra trên T-64A cải tiến được tiến hành vào tháng 2 năm 1971, và hệ thống 9K112 Kobra được đồng ý trang bị cho loại T-64B mới vào năm 1976. Tên lửa 9M112 được chia thành hai phần trong băng chuyền của hệ thống nạp đạn tự động, phần phía trước mang đầu đạn và động cơ đẩy, phần đuôi mang hệ thống điều khiển bay và bộ vận dẫn đường cùng với ống phóng 9D129 dùng để tống tên lửa ra khỏi nòng. Khi tên lửa được đưa vào nòng bằng hệ thống nạp đạn tự động, cả hai phần sẽ được nối với nhau, tầm bắn hiệu quả của Kobra là 4 km đối với mục tiêu xe tăng, và 5 km với mục tiêu là máy bay trực thăng bay cao dưới 500m (nhưng phải bắn trong chế độ bắn đặc biệt). Hệ thống điều khiển tên lửa dùng 2 tầng số điều khiển từ ăng ten chỉ huy GTN-12 nằm trong một hộp bảo vệ đặt bên phải của mặt trước tháp pháo. Vì giá tên lửa rất cao nên mỗi xe tăng chỉ được trang bị vài tên lửa, thông thường mỗi xe có 4 tên lửa trong tình trạng chiến đấu. Năm 1975, giá mỗi tên lửa Kobra là 5000 rúp (thời điểm đó, một động cơ xe tăng chạy dầu diesel giá chỉ 9000 rúp). Thập niên 1990, hệ thống tên lửa Kobra được nâng cấp lên tên lửa 9M128 Agona có đầu đạn xuyên 600 đến 650mm giáp.

Phiên bản Obiekt 219R được nâng cấp thế hệ giáp tấm mới nhất của Liên bang Xô Viết lúc bấy giờ trên tháp pháo với tên gọi "Tổ hợp K", được cấu tạo từ một khoang với lớp giáp thép đúc ở mặt trước tháp pháo với các que gốm từ loại sứ siêu bền (ultrafarforov) kết dính lại. Kiểu giáp tấm thế hệ 3 này là cuộc cách mạng của thế hệ giáp tấm, phát triển bởi Học viện Nghiên cứu Khoa học Thép (Nauchno Ispytatielniy Institut Stali: NII Stali), hai thế hệ đầu trên T-64 sử sụng nhôm trong khoang chứa, sau đó dùng các viên sứ kết dính bằng chất kết dính kim loại. Tổ hợp K cho khả năng bảo vệ tương đương 550mm thép ở mặt trước tháp pháo. Dốc nghiêng trước sử dụng một loại thép tấm khác bao gồm 80mm giáp thép, tiếp phía sau là 105m nhựa gia cố thủy tinh, sau là 20mm giáp thép, có khả năng bảo vệ tương đương 500mm thép bao gồm cả độ dốc. Tất cả các loại giáp composite này đều nhằm mục đích bảo vệ xe tốt hơn khi so sánh với các loại giáp thông thường khi chống lại các loại đạn chống tăng đầu nổ lõm (HEAT).

Obiekt 219R được chấp thuận đưa vào trang bị của quân đội Xô Viết với tên gọi T-80B và bắt đầu được sản xuất tại nhà máy Leningrad Kirov (LKZ) cùng năm đó để thay thế cho dòng T-80. Nhà máy Omsk bắt đầu sản xuất T-80B năm 1979, thay thế cho việc sản xuất T-55 xuất khẩu.Nhà máy Omsk đồng thời được chỉ định phát triển Obiekt 630, phiên bản xe chỉ huy của T-80B, T-80BK. Phiên bản xe chỉ huy được tích hợp thêm hệ thống định vị mặt đất ăng ten chỉ huy. T-80B trở thành dòng xe thông dụng nhất trong các dòng sản phẩm T-80, và là phiên bản đầu tiên được quyết định trang bị cho các lực lượng Xô Viết đóng tại Đức (GSFG) năm 1981. NATO lần đầu tiên thấy T-80B tiến vào Đức tháng 4 năm 1983 gần Halle, là xe của Trung đoàn xe tăng số 29 thuộc sư đoàn tăng số 9, tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 1 và các đơn vị của Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 8 vào năm 1984. Năm 1985, mỗi sư đoàn của tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 1 và số 8 nhận thêm một ít T-80B. Theo tài liệu giải mật của Hiệp ước Các lực lượng vũ trang thông thường ở châu Âu tháng 11 năm 1990, có 3518 T-80B và 217 T-80BK chỉ huy phục vụ phía Tây dãy Ural, 217 T-80BK chỉ huy, cộng thêm 617 xe được nâng cấp lên chuẩn T-80BV, tổng cộng có khoảng 4352 xe, chiếm 90% toàn số lượng T-80. Có rất ít T-80 đóng ở phía Đông dãy Ural, ngoại trừ số lượng nằm tại Omsk trong các kho dự trữ và các trường tập lái.

T-80BV (Ob'yekt 219RV)(1985)

T-80BV

Trong suốt cuộc chiến tại Liban năm 1982, lần đầu tiên trong lịch sử Israel sử dụng tăng lắp giáp phản ứng nổ (ERA). Thế hệ ERA đầu tiên được thiết kế để vô hiệu hóa đầu đạn nổ lõm. Đầu đạn nổ lõm khác đầu đạn thông thường ở chỗ, nó định hình thuốc nổ trong một hình chóp nón trước đầu đạn. Khi đầu đạn chạm nổ, khối thuốc nổ sẽ phá vỡ chóp nón kim loại, tạo một thành luồng nổ hình mũi tên có hạt nhân thép bên trong, đâm xuyên qua các lớp giáp thép thông thường. Viên gạch ERA là gồm một hộp kim loại đặt tại những góc mà xe hay trúng đạn nhất. Nhân bên trong bao gồm thuốc nổ dẻo và các miếng thép. Khi đầu đạn HEAT chạm vào ERA, thuốc nổ dẻo bên trong phát nổ, đưa các miếng thép ra trước luồng xuyên của đầu đạn lõm, làm giảm ảnh hưởng của đầu đạn. Học viện nghiên cứu NII Stali đã phát triển loại giáp này từ thập niên 1960 nhưng nó không được ưa chuộng và không được sử dụng.

Sự xuất hiện của loại Blazer ERA của Israel năm 1982 đã làm quân đội Xô Viết chú ý và quyết định trang bị nó cho xe tăng chủ lực Xô Viết. Đặc biệt là lực lượng đồn trú tại Đức (GSFG). ERA của NII Stali được mật danh là "Kontakt" và đưa vào trang bị thế hệ đầu tiên 4S20. NII Stali ước tính giáp Kontakt có thể giảm thiệt hại đến khoảng 86% từ đầu đạn tên lửa 125mm, 58% với đạn HEAT, và 92% với đạn hỏa tiễn chống tăng hạng nhẹ (M72 LAW cỡ 93mm). Kontakt nhẹ hơn Blazer của Israel và NII Stali nâng hiệu quả cao hơn 15%. Kontakt bắt đầu được trang bị trên xe tăng Xô Viết năm 1983 và được trang bị cho lực lượng đồn trú tại Đức năm 1984.

Năm 1985, Leningrad Kirov bắt đầu sản xuất T-80B với giáp Kontakt, đặt tên là T-80BV (Obiekt 219RV), phiên bản xe tăng chỉ huy tên là T-80BVK. Ký tự V thêm vào để chỉ từ "Nổ" (vyzryvnoi). Trong thời gian bảo trì định kì, những chiếc xe cũ được lắp thêm các khối Kontakt. Theo tài liệu giải mật của Hiệp ước Các lực lượng vũ trang thông thường ở châu Âu tháng 11 năm 1990, có khoảng 594 T-80BV và 23 T-80BVK phục vụ phía Tây dãy Ural, chiếm khoảng 13% số lượng T-80. Xe T-80 BV được trang bị cho các sư đoàn ở tuyến đầu, trong đó có các sư đoàn thuộc tập đoàn quân Phương Bắc đóng tại BaLan, gồm sư đoàn Súng trường Cơ Giới Cận Vệ Vitebsk ở Paromenia và sư đoàn xe tăng số 20 Zvenigorod đóng tại Silesia. Trong thời bình, giáp Kontakt không được gắn diềm hai bên hông xe, mà chỉ gắn ở tháp pháo.

T-80A (Ob'yekt 219A) (1982)

Phát triển từ T-80B. Động cơ GTD-1000M 1200 mã lực, hệ thống 9K119 điều khiển bắn ATGM 9M119M Refleks, một số chốt trục cho đại liên phòng không NVST,... T-80A chứa nhiều đạn hơn T-80B (40 so với 38). Có một số chi tiết của T-80U tương lai: giáp tốt hơn, hệ thống điều khiển bắn mới, thiết bị ngắm 1G46 của pháo thủ. Vì vậy T-80A nặng hơn 2,8 tấn. Năm 1984 dùng gạch ERA giống T-80BV (nhưng không có thiết bị điều khiển bắn trên nóc tháp pháo).

T-80A obr. 1984 là phiên bản T-80A với giáp phản ứng nổ Kontakt-1. T-80AK là phiên bản xe tăng chỉ huy của T-80A

T-80U (Ob'yekt 219AS) (1986)

T-80UT-80UK

T-80U (Uluschenniy) (1986) là bản nâng cấp của T-80A. Trang bị gạch ERA thế hệ 2 Kontakt-5 chống được đạn xuyên giáp động năng (một số bản cũ vẫn dùng Kontakt-1). Thiết bị ngắm 1G46, tháp pháo mới, động cơ GTD-1000F 1200 mã lực. Hệ thống 9K120 điều khiển được tên lửa 9M119M Refleks và 9M119 Svir. Đại liên phòng không NVST được điều khiển từ xa trong tháp pháo giống như T-64. Kênh tăng cường hình ảnh thay cho đèn hồng ngoại ở nóc tháp pháo dành cho xa trưởng. Thiết bị chỉ định laser đặt ở nóc xe, phía trước chỗ của xa trưởng và nằm trong một cái hộp bảo vệ hình chữ nhật. Nó phóng ra một chùm laser đã được điều chỉnh. Váy bảo vệ hông được bọc giáp ở phần che phủ 3 bánh trước và có tay cầm để nhấc lên. Váy trước có giáp chống sóng ra-đa. Các núm cao su ở trước xe chống lại mìn (loại có ngòi nổ tay đòn nghiêng tilt-rod fuse) và đạn HEAT. Nóc tháp pháo có thêm lớp bảo vệ. Ghế lái xe được treo lên nóc để tránh mìn. Hai cụm ống xả khói mù 81 ly 902B Tucha nằm hai bên tháp pháo. Có những họa tiết ngụy trang. Năm 1992 có thêm ống thông hơi "Brod-M" và động cơ mới GTD-1250D.

Phiên bản xe tăng chỉ huy T-80UK có thêm khả năng chỉ huy và kiểm soát trên chiến trường và có đường liên lạc lên cấp chỉ huy cao hơn. Nó tương tự như T-80U nhưng có một số tính năng phụ trợ. Nó được lắp bộ đối phó Shtora-1 cùng loại được lắp cho loại T-90. Shtora-1 do Electronintorg của Nga sản xuất. Hệ thống này gồm máy nhiễu âm hồng ngoại, hệ thống cảnh báo laser, hệ thống vô hiệu hoá lựu đạn và một hệ thống kiểm soát bắn computer. Tầm hoạt động 200m. Xe có một ăng ten tích hợp lưỡng cực đối xứng dùng được cho thông tin trên cả băng tần UHF và HF. Ăng ten này có tầm hoạt động tốt hơn khi xe đứng yên – lên tới 40 km cho sóng vô tuyến R-163-50U và 350 km cho sóng vô tuyến R-163-50K. Một máy phát điện chạy bằng benzene AB-1-P28 1 kW cung cấp năng lượng cho hệ thống thông tin khi xe đứng yên. T-80UK cũng có một hệ thống kiểm soát bắn hiện đại, nạp đạn tự động, bảo vệ tháp pháo ERA gắn liền và hỗ trợ lội nước TNA-4-3.

T-80 cải tiến thời kỳ hậu Liên Xô

T-80UM-1
  • T-80UM (Object 219AS-M): Phiên bản hiện đại hóa của Nga năm 1995. Có hệ thống điều khiển bắn mới đối với tên lửa 9M119M Refleks, thiết bị nhìn hồng ngoại "Agava-M1" (cũng có thể dùng "Agava-2" hoặc "Buran-R"), tháo bỏ đèn hồng ngoại L-4 "Luna".
    • T-80UM-1 "Bars" (báo tuyết): mẫu thử nghiệm năm 1997 với hệ thống phòng thủ chủ động ARENA (Zaloga 2000:4).
    • T-80UM-2: mẫu thử nghiệm năm 1997 với hệ thống phòng thủ chủ động Drozd-2 (Zaloga 2000:4).
  • Xe tăng Black Eagle (Object 640): Một loạt các nguyên mẫu trình diễn của Nga với tháp pháo mới bao gồm khoang phi hành đoàn và đạn dược riêng biệt, bộ nạp đạn tự động mới, giáp phản ứng nổ Kaktus, hệ thống ngắm mục tiêu cải tiến (không được tiết lộ chi tiết). 6-7 chiếc đã được chế tạo.
  • T-80BVM (2017): Phiên bản hiện đại hóa của Nga năm 2017. Được gắn giáp phản ứng nổ "Relikt" thế hệ 3, hệ thống điều khiển hỏa lực hiện đại (giống như trong T-90M, T-72B3M), nâng cấp các hệ thống khác nhau. Nga có kế hoạch nâng cấp 3.000 chiếc T-80 trong kho lên phiên bản này
  • T-80UD "Beryoza" (Ob'yekt 478B) (1985): Mẫu T-80 của Ucraina với động cơ diesel 6TD 1006 mã lực (750 kW). Dùng gạch ERA Kontakt-1 hoặc Kontakt-5.
    • T-84 (1994): Xem T-84.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: T-80 http://www.army-technology.com/projects/t80/ http://www.inetres.com/gp/military/cv/tank/T-80.ht... http://www.popularmechanics.com/technology/militar... http://survincity.com/2013/10/of-kmz-complex-produ... http://www.youtube.com/watch?v=gG2zb9iVvt8 http://www.kotsch88.de/f_agava-2.htm http://www.kotsch88.de/f_nocturne.htm http://www.jedsite.info/tanks-tango/tango-numbers-... http://www.knox.army..mil/center/ocoa/ArmourMag/ja... http://www.globalsecurity.org/military/world/belar...